BSCKII Nguyễn Hữu Hòa
Vai trò của
phẫu thuật ung thư
Phẫu thuật ung thư được dùng trong điều
tri hoặc chẩn đoán hoặc vừa chẩn đoán vừa điều trị. Phẫu thuật ung thư xuất
hiện từ rất lâu và nay vẫn chiếm đa số chỉ định cho hầu hết các loại ung thư.
Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị khác ra đời nhưng không thể thay thế hoàn
toàn được, nếu có chỉ thay thế một phần nhỏ.
Các loại
phẫu thuật ung thư
Phẫu thuật điều trị ung thư gồm nhiều
loại. Theo mục đích có phẫu thuật chữa lành và phẫu thuật tạm bợ. Theo mức độ
cắt bỏ, có phẫu thuật bảo tồn và phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ cơ quan.
Ngoài ra, có các loại khác như phẫu thuật
giảm tổng khối bướu, phẫu thuật cấp cứu.
Một loại phẫu thuật khác, không phải phẫu
thuật ung thư, nhưng không thể thiếu là phẫu thuật tái tạo, áp dụng cho những
trường hợp khuyết hổng lớn sau phẫu thuật cắt bỏ rộng tổn thương, nhằm phục hồi
hình và chức năng.
Nguyên tắc phẫu thuật ung thư điều trị tận gốc
Nguyên tắc phẫu thuật ung thư là cắt bỏ
rộng tổn thương ung thư hay bướu nguyên phát, thậm chí có thể cắt bỏ cả cơ quan
mang bướu và nạo khối mô mỡ hạch vùng thành nguyên một khối với nhau.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cắt bỏ
rộng bướu nguyên phát và hạch vùng không thành nguyên một khối.
Các yếu cầu để thực hiện được một cuộc phẫu thuật cho bệnh nhân
Để thực hiện được một cuộc phẫu thuật cho
bệnh nhân cần thỏa đầy đủ các yếu tố:
1.
Căn bệnh có chỉ định phẫu thuật,
2.
Bác sĩ có khả năng phẫu thuật,
3.
Sức khỏe và tuổi tác bệnh nhân cho phép
phẫu thuật,
4.
Bệnh nhân và thân nhân đồng ý phẫu thuật,
5.
Có chi phí cho cuộc phẫu thuật,
6.
Và cuối cùng có cơ sở đầy đủ về gây mê hồi
sức.
Cần phân biệt, quá chỉ định phẫu thuật và quá khả năng phẫu thuật.
Quá chỉ định phẫu thuật có thể về mặt bệnh
lý hoặc về mặt tuổi tác, sức khỏe và bệnh lý kèm. Cụ thể, quá chỉ định khi bệnh
ăn lan quá mức tại chỗ và hoặc di căn xa nhiều mà phẫu thuật ảnh hưởng đến đến
cấu trúc sinh tồn. Những yếu tố khác gây quá chỉ định phẫu thuật là tuổi quá
cao, sức khỏe quá yếu hoặc bệnh lý đi kèm nặng.
Còn quá khả năng phẫu thuật không đồng
nghĩa với quá chỉ định phẫu thuật, khi trên thế giới hoặc nơi nào đó thực hiện
được mà bản thân bác sĩ hay bệnh viện không thực hiện được phẫu thuật đó, thì
gọi là quá khả năng phẫu thuật, hay nói khác đi, cả thế giới y học đều không
thể thực hiện được thì gọi là quá chỉ định phẫu thuật.
Phẫu thuật
ung thư trong điều trị đa mô thức
Phẫu thuật điều trị ung thư có thể đơn độc
hoặc phối hợp với xạ trị, hóa trị, nội tiết, sinh học. Khi phẫu thuật kết hợp
với ít nhất một trong các phương pháp này, gọi là phẫu thuật trong điều trị đa
mô thức. Khi đó, phẫu thuật có thể thực hiện trước hoặc sau các mô thức kể
trên.
Các đánh
giá cần có trước phẫu thuật ung thư
Trước hết cần có là chẩn đoán xác định ung
thư và giai đoạn ung thư, trừ một số trường hợp, chẩn đoán chỉ là nghi ngờ ung
thư. Các đánh giá này giúp xác định xem có chỉ định phẫu thuật không.
Đánh giá tiếp theo đó là mức lan rộng của
tổn thương bướu nguyên phát và hạch vùng, thậm chí một số trường hợp, cần đánh
giá cả di căn xa, khi di căn này còn mổ được.
Giai đoạn không thể phản ánh hết mức độ ăn
lan của bướu và hạch về mặt ảnh hưởng đến khả năng phẫu thuật, do đó, đánh giá
thêm độ lan rộng liên quan đến khả năng phẫu thuật rất quan trọng và không thể
thiếu. Các phương tiện đánh giá bao gồm thăm khám, hình ảnh chẩn đoán, nội soi,
thậm chí cả chọc hút bằng kim hoặc sinh thiết.
Đánh giá mức độ xâm lấn xung quanh, nhất
là cơ quan, cấu trúc sinh tồn quan trọng như mạch máu lớn, thần kinh lớn, cơ
quan sinh tồn.
Khi có xấm lấn, đánh giá mức độ cắt bỏ và tai
biến, biến chứng có thể xảy ra nếu cắt bỏ. Khi đó, chuẩn bị biện pháp phòng
ngừa và xử trí tai biến biến chứng. Có những trường hợp không thể khắc phục
biến chứng thì chỉ cắt bỏ cấu trúc hay cơ quan bị xâm lấn nếu để lại di chứng
không nặng nề và chấp nhận được. Điều này nên được thông báo, bàn bạc với bệnh
nhân và thân nhân trước mổ và sau mổ phải thông báo lại cho họ.
Một phẫu
thuật ung thư như thế nào gọi là thất bại?