· Phẫu thuật cắt tuyến giáp qua nội soi: trong quá trình phẫu thuật, phẫu thuật viên sẽ rạch một đường nhỏ. Việc phẫu thuật cũng tương tự như phẫu thuật cắt giáp tiêu chuẩn ngoại trừ phạm vi phẫu thuật và màn hình video được sử dụng để hướng dẫn thủ thuật hơn là việc phóng đại phẫu trường mổ bằng đồ đeo mắt đặc biệt (khác với vi phẫu).
· Phẫu thuật cắt tuyến giáp bằng robot: Phẫu thuật viên sẽ rạch một đường ở vị trí khác như ở nách, chân tóc sau gáy, hoặc ở ngực, và rồi sử dụng một dụng cụ bằng robot để tiến hành phẫu thuật. Phẫu thuật cắt tuyến giáp bằng robot thì hiện nay chưa được khuyến cáo.
Không phải tất cả những lựa chọn phẫu thuật được khuyến cáo cho tất cả những bệnh nhân. Hãy nói với bác sĩ của bạn về phương thức điều trị tốt nhất cho bạn.
Nếu có bằng chứng hoặc nguy cơ lan tràn của ung thư đến hạch vùng cổ, phẫu thuật viên cũng có thể tiến hành nạo hạch cổ. Phẫu thuật này là để loại bỏ những hạch bạch huyết vùng cổ gọi là lymphadenectomy.
Thông thường, những biến chứng của phẫu thuật tuyến giáp có thể bao gồm làm tổn thương tuyến cận giáp, tuyến này có chức năng điều hoà nồng độ canxi trong máu; gây xuất huyết kéo dài, hoặc nhiễm trùng vết thương. Nếu dây thần kinh thanh quản bị tổn thương trong quá trình phẫu thuật có thể dẫn đến khàn giọng tạm thời hoặc vĩnh viễn hoặc giọng “thở”.
Không có tuyến giáp, cơ thể sẽ ngưng sản xuất hocmon tuyến giáp, hormon nàyvcần thiết cho hoạt động chức năng của cơ thể. Việc thay thế hocmon (xem bên dưới) thường được dùng bằng viên uống hằng ngày là giải pháp tốt nhất. Bệnh nhân cũng có thể bổ sung thêm vitamin D và Canxi nếu chức năng của tuyến cận giáp bị suy giảm sau phẫu thuật.
Nếu khối u không thể loại bỏ hết bằng phẫu thuật, chúng ta gọi là không thể cắt bỏ. Bác sĩ sẽ khuyến cáo bạn những lựa chọn điều trị khác.
Trước khi phẫu thuật, hãy trao đổi với bác sĩ về những biến chứng có thể có thể xảy ra từ việc phẫu thuật.
Điều trị hormon
Những bệnh nhân người được điều trị với phẫu thuật thường cần đến liệu pháp hormon tuyến giáp. Ngoài việc cung cấp hormon cần thiết cho cơ thể, thuốc hormon tuyến giáp cũng có thể làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư còn lại.
Thuốc thay thế hormon tuyến giáp là levothyroxine ( Levothroid, Levoxyl, Synthroid, Tirosint, Unithroid, và những tên biệt dược khác). Levothyroxine đặc trưng là ở dạng viên nên thường uống hằng ngày vào cùng một thời điểm ở mỗi ngày, vì thế cơ thể sẽ được cung cấp một cách phù hợp. Ngoài ra hãy nói với bác sĩ của bạn những thuốc khác bạn đang uống, bao gồm chế độ ăn có cung cấp các chất như sắt, canxi để tránh những tương tác với hocmon tuyến giáp thay thế. Hãy đọc hưỡng dẫn sử dụng để uống thuốc một cách đúng đắn.
Những viên thuốc bổ sung hormon giáp có thể có vài tác dụng phụ. Thông thường, một vài bệnh nhân sẽ nổi ban hoặc rụng tóc trong tháng đầu tiên điều trị.
Cường giáp (Hyperthyroidism) là một tình trạng mà có quá nhiều hormon tuyến giáp. Nó có thể là nguyên nhân gây sụt cân, đau ngực, nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp, chuột rút, tiêu chảy, cảm giác nóng, vả mồ hôi hoặc loãng xương.
Suy giáp (Hypothyroidsim) là tình trạng mà có quá ít hormon tuyến giáp. Nó có thể là nguyên nhân gây ra mệt mỏi, tăng cân, khô da và tóc, cảm giác lạnh.
Việc yêu cầu số lượng hoặc liều lượng hormon giáp là khác nhau ở mỗi bệnh nhân và loại khối u, và nó có thể thay đổi theo tuổi hoặc theo cân nặng. Bác sĩ sẽ theo dõi nồng độ hormon thông qua xét nghiệm máu thường xuyên. Hãy trao đổi với bác sĩ của bạn về những dấu chứng để theo dõi và điều chỉnh liều hormon thay thế của bạn.
Liệu pháp iod phóng xạ (Radioiodine therapy)
Tuyến giáp sẽ hấp thụ hầu hết nguồn iodine cung cấp vào cơ thể. Do đó, một dạng xạ trị được gọi là iod phóng xạ (hoặc gọi là I-131 hoặc RAI) có thể tìm và phá huỷ tế bào tuyến giáp mà không thể loại bỏ bằng phẫu thuật và lan xa khỏi tuyến giáp. Bác sĩ điều trị iod phóng xạ thường là chuyên khoa nội tiết hoặc y học hạt nhân.
Điều trị iod phóng xạ là một lựa chọn cho bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú (papillary) hoặc thể nang( follicular). Iod phóng xạ được dùng để điều trị bệnh nhân với ung thư tuyến giáp thể biệt hoá có di căn hạch hoặc di căn xa. Kiểm tra thử với một liều nhỏ có thể được dùng trước khi tiến hành điều trị đầy đủ để chắc chắn rằng tế bào khối u sẽ hấp thụ I-131. Bệnh nhân với ung thư tuyến giáp thể tuỷ (medullary) hoặc thể không biệt hoá hay còn gọi thể tự miễn (anaplastic) không nên điều trị với I-131.
Liệu pháp I-131 được dùng vừa bằng dạng uống hoặc dạng viên. Bệnh nhân người uống I-131 để phá huỷ những tế bào ung thư còn sót lại có thể cần nhập viện 2-3 ngày, phụ thuốc vào nhiều yếu tố, bao gồm liều lượng cần dùng. Bệnh nhân được khuyến khích uống nhiều nước để giúp I-131 nhanh chóng đi khắp cơ thể. Trong vòng một vài ngày, phóng xạ sẽ hết. Hãy hỏi bác sĩ về cách để hạn chể phơi nhiễm phóng xạ cho người khác bao gồm trẻ em, người có thể ở xung quanh bạn trong quá trình điều trị và theo dõi.
Để chuẩn bị cho liệu pháp I-131 sau phẫu thuật, bệnh nhân thường được yêu cầu giảm lượng iot trong bữa ăn khoảng 2-3 tuần trước khi điều trị. Ngoài việc giảm lượng iot trong bữa ăn, bệnh nhân sẽ được đề nghị tạm ngưng uống hocmon thay thế bằng viên hoặc nhận một liều tiêm TSH ( Thyrogen) trong khi đang dùng hocmon thay thế. Nếu liệu pháp hocmon được dừng lại để chuẩn bị cho liệu trình Iod phóng xạ thì bệnh nhân sẽ trải quan những tác dụng phụ của suy giáp như đã trình bày ở trên.
Điều quan trọng là trao đổi với bác sĩ của bạn là những tác dụng phụ ngắn hạn và dài hạn có thể xảy ra khi dùng liệu pháp I-131. Trong ngày điều trị đầu tiên, có thể buồn nôn và nôn. Trong một vài tình huống, đau và sưng phù có thể xảy ra ở những nơi có tập trung iod phóng xạ. Khi Iod tập trung tại mô tuyến nước bọt, có thể sưng tuyến nước bọt, dẫn dến khô miệng (xerostomia).
Với liều lớn hoặc tích luỹ của Iod phóng xạ có thể gây vô sinh, có nghĩa là mất khả năng sinh con, đặc biệt là ở nam. Khuyến cáo rằng những phụ nữ cần tránh mang thai ít nhất 1 năm sau điều trị I-131. Có nguy cơ ung thư thứ phát khi dùng I-131. Thỉnh thoảng, bệnh nhân cần được yêu cầu điều trị lại theo thời gian. Tuy nhiên, khi tổng liều tối đa của Idt phóng xạ cho phép theo thời gian một khi đã đạt được thì có thể không cần phải điều trị nữa.
Xạ trị ngoài
Xạ trị ngài (External-Beam radiation) là một hình thức xạ trị khác sử dụng tia X năng lượng cao từ một máy bên ngoài cơ thể để phá huỷ tế bào ung thư. Một bác sĩ người chuyên trong lĩnh vực xạ trị ngoài gọi là bác sĩ xạ trị ung thư (radiation oncologist). Phác đồ hay lịch trình xạ trị ngoài thường bao gồm số lần được xạ trị trong một khoảng thời gian, thường xạ 5 ngày trong một tuần cho 5 đến 6 tuần.
Đối với ung thư tuyến giáp. Xạ trị ngoài chỉ được sử dụng trong một vài trường hợp, như ở giai đoạn trễ mà ung thư đã lan tràn vào những vùng quan trọng của cổ như khí quản, thanh quản, hoặc thực quản. Xạ trị ngoài thường được dùng sau khi phẫu thuật và điều trị tập trung vào một vùng chuyên biệt nào đó để chỉ tác động lên tế bào ung thư tại vị trí đó.
Tác dụng phụ tuỳ thuộc vào liều điều trị và vùng chiếu xạ, nó có thể bao gồm đỏ da, nuốt đau, ho, thỉnh thoảng khàn giọng, buồn nôn, và mệt mỏi. Hầu hết tác dụng phụ này biến mất sau khi kết thúc điều trị.
Hoá trị
Hoá trị là dùng thuốc để phá huỷ tế bào ung thư, thường tác động vào giai đoạn phân chia và phát triển của tế bào ung thư. Hoá trị do bác sĩ nội khoa ung thư (medical oncologist) chỉ định. Phác đồ hoá trị hoặc liệu trình bao gồm một số chu kỳ trong một khoảng thời gian. Bệnh nhân có thể nhận 1 thuốc hoặc là kết hợp nhiều thuốc khác nhau cùng một lúc.
Hoá chất sẽ được đưa vào máu đến tế bào ung thư ở khắp cơ thể. Cách dùng phổ biến bao gồm truyền tĩnh mạch (IV) hoặc đường uống. Mục đích của hoá trị là có thể phá huỷ những tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật, làm chậm sự phát triển của khổi u hoặc giảm triệu chứng.
Những tác dụng phụ của hoá trị phụ thuộc vào từng cá thể và liều dùng, có thể có những triệu chứng bao gồm mệt mỏi, nguy cơ nhiễm trung, buồn nôn và nôn, rụng tóc, chán ăn, tiêu chảy. Những tác dụng phụ này thường sẽ biến mất sau khi kết thúc điều trị.
Liệu pháp trúng đích
Liệu pháp trúng đích là phương thức điều trị mà đích là những gen, protein đặc hiệu của ung thư hoặc môi trường mô góp phần vào sự phát triển và tồn tại của ung thư. Đây là phương thức điều trị nhằm ngăn chặn sự phát triển và lan tràn của tế bào ung thư trong khi đó giới hạn làm tổn thương của tế bào bình thường. Những nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả các khối u điều có chung những đích. Tìm ra điều trị hiệu quả nhất, bác sĩ phải làm những xét nghiệm để xác định những gen, protein, và những yếu tố khác trong khối u của bạn. Điều này sẽ giúp bác sĩ có lựa chọn phù hợp hơn với mỗi bệnh nhân để đạt được hiệu quả điều trị tốt nhất có thể. Ngoài ra, hiện đang có nhiều nghiên cứu đang tiến hành để tìm nhiều hơn những đích phân tử đặc hiệu trong các thể khác nhau của ung thư tuyến giáp và những liệu pháp điều trị mới nhằm trực tiếp vào chúng.
Đối với ung thư giáp thể nhú và thể nang thì cơ quan kiểm duyệt thuốc và thực phẩm (FDA) ở Mỹ đã chấp nhận 2 loại thuốc nhắm trúng đích:
· Vào năm 2013, FDA đã chấp thuận một thuốc nhắm trúng đích được gọi là sorafenib (Nexavar) cho ung thư tuyến giáp giai đoạn muộn hoặc thể biệt hoá tái phát khi điều trị với I-131 không hiệu quả. Thuốc này đã được báo cáo tại hội nghĩ thường niên ASCO vào năm 2013. Những tác dụng phụ thường gặp của sorafenib bao gồm phản ứng da bàn tay bàn chân, những vấn đề khác về da, tiêu chảy, mệt mỏi, sụt cân, và tăng huyết áp.
· Vào năm 2015, FDA đã chấp nhận Lenvatinib (Lenvima, E7080), cho điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hoá ở giai đoạn muộn khi mà phẫu thuật và điều trị Iot-131 không hiệu quả . Những tác dụng phụ của lenvatinib bao gồm tăng huyết áp, tiêu chảy, chán ăn, sụt cân, và buồn nôn.
Đối với ung thư giáp thể tuỷ (MTC), có 2 thuốc nhắm trúng đích đã được chấp thuận.
· Vào năm 2011, FDA đã chấp thuận vandetanib (Caprelsa, zd674),là một loại liệu pháp nhắm đích được biết như ức chế tyrosine kinase (TKI). Đặc biệt, vandetanib bây giờ là điều trị tiêu chuẩn cho người lớn khi ung thư tuyến giáp thể tuỷ không thể phẫu thuật được, nếu bệnh diễn tiến nặng nặng hoặc nếu di căn đến những vị trí khác của cơ thể.
Thuốc được cho uống hằng ngày dưới dạng viên. Liều hằng ngày của vandetanib là 300 mg. Tác dụng phụ thường gặp bao gồm tiêu chảy và viêm đại tràng, phát ban trên da, buồn nôn, tăng huyết áp, đau đầu, mệt mỏi, chán ăn, đau dạ dày. Ngoài ra, những tác dụng phụ nghiêm trọng khác trên hô hấp và tim mạch cũng có thể xảy ra. Xét nghiệm máu, bao gồm đo nồng độ Kali, Canxi, Magnesim và TSH có thể được thực hiện thường quy để theo dõi phản ứng của cơ thể với thuốc.
· Vào năm 2012, FDA đã chấp thuận một loại TKI khác trong điều trị ung thư giáp thể tuỷ di căn được gọi là cabozantinib ( cometriq, cabometyx, XL184). Liều khuyến cáo là 140mg, uống dưới dạng viên 1 lần/ngày. Tác dụng phụ có thể bao gồm táo bón, đau dạ dày, tăng huyết áp, thay đổi màu tóc, mệt mỏi, buồn nôn, sưng phù, ngoài ra có thể vấn đề viêm đại tràng.
Trước khi bắt đầu với bất cứ liệu pháp nhắm đích nào, hãy trao đổi với bác sĩ của bạn về những tác dụng phụ có thể xảy ra với những loại thuốc đặc biệt và làm thế nào để kiểm soát chúng.
Hoá trị hoặc liệu pháp trúng đích như là một phần trong kế hoạch điều trị của bạn
Tại thời điểm này, việc sử dụng hoá trị và liệu pháp trúng đích cho việc điều trị ung thư tuyến giáp được xác định trên cơ sở cá thể và thường được đưa vào như là một phần thử nghiệm lâm sàng.
Những thuốc được sử dụng để điều trị ung thư vẫn đang liên tục được đánh giá. Trao đổi với bác sĩ là cách tốt nhất để hiểu về thuốc đó, về những tác dụng phụ hoặc tương tác với những thuốc khác.
Chăm sóc các triệu chứng và tác dụng phụ.
Ung thư và điều trị ung thư thường gây ra tác dụng phụ. Ngoài ra, để điều trị có tác dụng làm chậm, dừng hoặc loại bỏ ung thư, thì chăm sóc ung thư là làm giảm những triệu chứng và tác dụng phụ cũng đóng vai trò quan trọng. Liệu pháp này gọi là chăm sóc nâng đỡ hay chăm sóc giảm nhẹ và bao gồm hỗ trợ cho bệnh nhân về thể chất, cảm xúc và nhu cầu xã hội.
Chăm sóc giảm nhẹ là bất cứ điều trị nào tập trung vào việc làm giảm những triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống, và hỗ trợ bệnh nhân cũng như gia đình họ. Bất cứ bệnh nhân nào không kể tuổi hoặc loại ung thư cũng như giai đoạn điều có thể nhận được chăm sóc giảm nhẹ. Nó sẽ hiệu quả nhất khi chăm sóc giảm nhẹ được bắt đầu càng sớm càng tốt trong quá trình điều trị ung thư.
Bệnh nhân thường được điều trị giảm tác dụng phụ cùng lúc với điều trị ung thư. Thực tế những bệnh nhân nào được điều trị như vậy thường có ít những triệu chứng nặng và chất lượng cuộc sống tốt hơn cũng như thoải mái hơn với điều trị ung thư.
Điều trị giảm nhẹ khá là rộng và thường bao gồm điều trị bằng thuốc, thay đổi dinh dưỡng, kỹ thuật thư giãn, hỗ trợ về cảm xúc, và những liệu pháp khác. Bạn cũng có thể được điều trị giảm nhẹ tương tự như điều trị triệt để với hoá trị, phẫu thuật hoặc xạ tị. Hãy trao đổi với bác sĩ của bạn về mục đích điều trị trong kế hoạch điều trị của bạn.
Trước khi bắt đầu điều trị, hãy trao đổi với bác sỹ về những tác dụng phụ có thể xảy ra trong kế hoạch điều trị của bạn mà những hình thức chăm sóc giảm nhẹ. Trong quá trình điều trị cũng như sau điều trị, trao đổi với bác sỹ hoặc những người chăm sóc sức khoẻ khác những vấn đề bạn có để giải quyết càng nhanh càng tốt.
Lựa chọn điều trị theo giai đoạn
Hầu hết tất cả ung thư tuyến giáp được điều trị với phẫu thuật. Nếu ung thư tuyến giáp chỉ nằm trong những mô vùng cổ, cả tuyến giáp và hạch, phẫu thuật sẽ là điều trị tiêu chuẩn ban đầu. Bệnh nhân với giai đoạn muộn vẫn có thể điều trị với phẫu thuật tốt, nhưng những điều trị khác có thể thực hiện trước. Những thử nghiệm lâm sàng có thể được khuyến cáo tại bất kỳ giai đoạn nào khi lựa chọn điều trị.
Liệu pháp hocmon và Iod phóng xạ chỉ dùng cho thể nhú, thể nang và thể tế bào Hurthle. Những loại ung thư tuyến giáp khác không dùng iod phóng xạ hoặc liệu pháp hormon.
Giai đoạn I : Phẫu thuật, liệu pháp hormon, có thể có liệu pháp iod phóng xạ sau phẫu thuật
Giai đoạn II: Phẫu thuật, liệu pháp hormon, có thể có liệu pháp iot phóng xạ sau phẫu thuật
Giai đoạn III: Phẫu thuật, liệu pháp hormon, có thể có liệu pháp iod phóng xạ sau phẫu thuật hoặc xạ trị ngoài sau phẫu thuật
Giai đoạn IV: Phẫu thuật, liệu pháp hormon, liệu pháp iod phóng xạ, xạ trị ngoài, liệu pháp nhắm trúng đích, và hoá trị. Xạ trị ngoài có thể được sử dụng điều trị giảm đau hay những vấn đề khác. Xem thêm thông tin bên dưới về ung thư giáp di căn.
Ung thư giáp di căn
Nếu ung thư đã di căn xa khỏi tuyến giáp đế những cơ quan khác, chẳng hạn như xương hoặc phổi, nó được gọi là di căn hoặc ung thư giáp giai đoạn IV. Ngoài ra tất cả khối u tuyến giáp thể kém biệt hoá được phân loại giai đoạn IV vào lúc chẩn đoán mà không kể đến kích thước bướu, vị trí hoặc di căn.
Nếu chẩn đoán ung thư giáp giai đoạn IV, hãy trao đổi với bác sĩ người mà có kinh nghiệm trong điều trị nó. Bác sĩ có thể có những lựa chọn khác nhau về kế hoạch điều trị tốt nhất. Ngoài ra, những thử nghiệm lâm sàng cũng có thể là một lựa chọn. Hãy tìm hiểu về lựa chọn thứ 2 trước khi bắt đầu điều trị để bạn cảm thấy thoái mái nhất với lựa chọn kế hoạch điều trị.
Kế hoạch điều trị có thể bao gồm phối hợp phẫu thuật, liệu pháp hormon, điều trị iod phóng xạ, xạ trị ngoài, liệu pháp nhắm trúng đích, và hoá trị. Những thử nghiệm lâm sàng về những phương pháp điều trị mới cũng có thể được khuyến cáo. Chăm sóc giảm nhẹ cũng sẽ quan trọng để giúp giảm những triệu chứng và tác dụng phụ
Hầu hết các bệnh nhân khi được chẩn đoán ung thư di căn thì sẽ rất là stress và đối mặt với nhiều khó khăn. Bệnh nhân và gia đình của họ được khuyến khích trao đổi về cảm giác của họ với bác sĩ, y tá, nhân viên công tác xã hội hoặc những chuyên gia chăm sóc sức khoẻ khác. Sẽ hữu ích khi nói chuyện với những bệnh nhân khác, thông qua những nhóm hỗ trợ.
Sự khỏi bệnh và nguy cơ tái phát
Sự khỏi bệnh là khi ung thư ko còn được phát hiện trong cơ thể bạn và không có triệu chứng nào. Nó cũng có thể được gọi là “ không có bằng chứng nào về bệnh” ( No evidence of disease:NED)
Sự khỏi bệnh có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn. Chính điều không chắc chắn này làm nhiều bệnh nhân lo lắng ung thư sẽ quay trở lại. Trong khi đó cũng có nhiều bệnh nhân khỏi bệnh vĩnh viễn, điều quan trọng là hãy nói với bác sĩ về khả năng tái phát của ung thư. Hiểu biết về nguy cơ tái phát của bạn và những lựa chọn điều trị có thể giúp bạn có được sự chuẩn bị nếu ung thư quay trở lại.
Nếu ung thư quay trở lại sau khi điều trị ban đầu, nó được gọi là sự tái phát ung thư. Nó có thể quay trở lại tại vị trí xuất hiện (gọi là tái phát tại chỗ), nếu gần vị trí đó ( gọi là tái phát tại vùng) hoặc ở vị trí khác (gọi là di căn xa).
Khi xảy ra, các xét nghiệm sẽ được bắt đầu làm lại để đánh giá đầy đủ của sự tái phát. Sau khi xét nghiệm hoàn tất, bạn và bác sĩ sẽ trao đổi về lựa chọn điều trị tiếp theo.
Thông thường kế hoạch điều trị sẽ bao gồm như được mô tả ở phía trên, chẳng hạn phẫu thuật, liệu pháp iod phóng xạ, liệu pháp nhắm trúng đích, xạ trị ngoài, liệu pháp hormon và hoá trị. Tuy nhiên, họ có thể sử dụng phối hợp các mô thức khác nhau. Bác sĩ của bạn có thể đề nghị những thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra là một cách mới để điều trị cho loại ung thư tái phát này. Bất cứ khi nào kế hoạch điều trị bạn chọn, chăm sóc giảm nhẹ sẽ quan trọng cho việc làm giảm triệu chứng hoặc tác dụng phụ.
Bệnh nhân tái phát thường trải qua những cảm xúc chẳng hạn như mất niềm tin hoặc sợ hãi. Bệnh nhân được khuyến khích để nói với nhóm chăm sóc sức khoẻ của họ về những cảm xúc này và yêu cầu hỗ trợ để giúp họ đối mặt.
Nếu điều trị không hiệu quả
Sự khỏi bệnh trong ung thư giáp thì không phải lúc nào cũng có được. Nếu ung thư không thể chữa khỏi hay được kiểm soát, thì tình trạng bệnh này này sẽ được gọi là bệnh giai đoạn cuối hoặc giai đoạn tiến xa.
Khi chẩn đoán như vậy là thật sự gây stress cho nhiều bệnh nhân, gây khó khăn trong việc trao đổi. Tuy nhiên, điều quan trọng là trao đổi cởi mở và thành thật với bác sĩ về cảm xúc, mong muốn và những mối bận tâm của bạn. Nhóm chăm sóc sức khoẻ sẽ giúp bạn và nhiều thành viên trong nhóm sẽ có những kỹ năng đặc biệt, kinh nghiệm, và kiến thức để hỗ trợ bệnh nhân và gia đình. Cảm thấy thoải mái thể chất và giảm đau là điều cực kỳ quan trọng
Bệnh nhân giai đoạn tiến xa và kỳ vọng sống còn ít hơn 6 tháng có thể mong muốn xem xét một hình thức chăm sóc giảm nhẹ gọi là Hospice care. Hospice care được thiết kế để tạo ra một chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể cho bệnh nhân khi gần cuối đời.
Bạn và gia đình của bạn được khuyến khích trao đổi với nhóm chăm sóc sức khoẻ về lựa chọn Hospice care bao gồm giảm nhẹ tại nhà hoặc những trung tâm chăm sóc giảm nhẹ đặc biệt hoặc những vị trí khác. Chăm sóc điều dưỡng, chăm sóc điều dưỡng đặc biệt và thiết bị đặc biệt có thể thực hiện cũng là một lựa chọn của nhiều gia đình.